Vietnamese Vietnamese

(Zing online) Sử sách nước ta ghi nhận trạng nguyên Nguyễn Trực ham đọc sách từ bé, còn bảng nhãn Lê Quý Đôn “đỗ đạt vinh hiển mà tay vẫn không rời quyển sách”.

Trạng nguyên Nguyễn Trực (1417-1474) người xã Bối Khê, huyện Thanh Oai, Hà Nội, nổi tiếng là người mê đọc sách. Lúc bé, ông được người đời khen ngợi là thông minh, đọc nhiều sách.

“Tháng khuyến học” là hoạt động thường niên được các cấp Hội khuyến học kế tục và phát triển mạnh mẽ, được các tầng lớp nhân dân, các đoàn thể xã hội, các doanh nghiệp phối hợp hưởng ứng rộng rãi, mang lại nhiều kết quả tốt đẹp, có sức lan tỏa mạnh mẽ.

Dưới thời vua Lê Nhân Tông, khi được cử đi sứ nhà Minh, Nguyễn Trực đã tham gia kỳ thi ở Trung Quốc và đỗ trạng nguyên.

Theo sách Những người thầy trong sử Việt, tháng 8 năm Đinh Sửu (1457), sứ thần nhà Minh là Hoàng Gián sang nước ta đàm phán về quan hệ ngoại giao giữa hai nước.

Vua Lê Thánh Tông trị vì đất nước trong hơn 37 năm (1460 - 1497). Ông được đánh giá là vị vua vĩ đại nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.

Với tài năng nổi bật về kinh bang tế thế của mình, ông đã xây dựng được một đất nước phát triển đến độ cực thịnh, từ kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, quân sự và mở rộng lãnh thổ.

Bậc “Hiền tài” - Tinh hoa của dân tộc, là vốn quý của quốc gia. Ngược dòng lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam,  những đại chí sĩ võ công văn trị như: Đinh Điền, Nguyễn Bặc (thời Đinh), Lý Thường Kiệt, Lý Đạo Thành (thời Tiền Lê), Tô Hiến Thành (thời Lý), Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Đạo Tái, Trạng nguyên Nguyễn Hiền (thời Trần), Nguyễn Trãi, Trạng nguyên Lương Thế Vinh (thời Lê Sơ), Nguyễn Thiếp (La Sơn Phu Tử), Ngô Thị Nhậm, Phan Huy Ích (thời Quang Trung Nguyễn Huệ)… đều được các vị vua anh minh tài ba trọng dụng vào các chức quan giúp triều đình chăm lo chính sự quốc gia. Nhờ thế mà vương triều thời ấy vững mạnh, thắng giặc ngoại xâm, đất nước thái bình hưng thịnh. Đồng thời cũng chính sự tôn quý, cảm phục vị minh quân đã tin yêu, giao trọng trách tạo điều kiện mà nhiều nhân tài trở thành văn quan, võ tướng tài ba kiệt xuất, trung quân ái quốc, có những cống hiến quý báu, to lớn cho sự trường tồn, vinh quang của quốc gia dân tộc và lưu mãi danh thơm.

Lương Thế Vinh chủ trương học trò cần học tập chuyên tâm, nhưng cũng phải biết kết hợp với giải trí và phải vận dụng kiến thức vào cuộc sống.

Lương Thế Vinh sinh năm 1441 ở làng Cao Hương, huyện Thiên Bản, trấn Sơn Nam, nay là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo (Vụ Bản, Nam Định). Hồi nhỏ, ông nổi tiếng khỏe mạnh, học một biết mười, nhưng nghịch ngợm cũng bằng mười chúng bạn. Lớn lên một chút, ông được bố mẹ gửi tới học với cụ Giải nguyên Lương Hay ở Hoằng Hóa (Thanh Hóa) và trở thành học trò giỏi của cụ, đỗ trạng nguyên ngay trong lần đầu lều chõng đi thi vào năm 22 tuổi.

Khoa cử là một trong những hình thức cơ bản để tuyển dụng nhân tài, phục vụ đất nước ngày xưa. Để có thể tuyển dụng nhân tài phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, nhà Lý bắt đầu đặt những viên gạch đầu tiên để xây dựng nền giáo dục nước nhà. Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”, năm 1070, vua Lý Nhân Tông cho thành lập Văn Miếu, 1 năm sau cho lập Quốc Tử Giám (trường học đầu tiên của quốc gia).

 LTS: Quý độc giả đang theo dõi bài viết của Đại tá Đặng Việt Thủy-một sỹ quan quân đội hưu trí, bài viết được rút ra từ những bài học về cách dùng người của vua Lê Thánh Tông trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo nhân tài.

Tiếp quản Phú Xuân năm 1786 rồi lên ngôi hoàng đế năm 1788, vua Quang Trung bắt tay vào công cuộc xây dựng và cải cách đất nước. Trong đó, cải cách nền giáo dục mang đậm tính dân tộc là một trong những hoài bão mãnh liệt của ông.

Để đẩy mạnh các hoạt động khuyến học, khuyến tài và thúc đẩy chương trình xã hội học tập tại cơ quan, đơn vị, Hội Khuyến học trường CĐSP Kiên Giang đã long trọng tổ chức Đại hội đại biểu Hội Khuyến học khoá 1, nhiệm kì 2021 – 2025 tại Giảng đường của trường vào sáng ngày 5/11/2021. Đại hội nhằm tổng kết lại các kết quả hoạt động của BCH Hội Khuyến học lâm thời nhiệm kì 2015 – 2020 và đề ra phương hướng, nhiệm vụ của Hội Khuyến học nhà trường nhiệm kì 2021 – 2025.

Học hành, thi cử là con đường vinh quang với những người đỗ đạt, nhưng đó cũng là thách thức gian nan với nhiều sĩ tử ngày xưa.

Con đường học hành của sĩ tử ngày xưa bắt đầu rất sớm. Theo một số tài liệu còn lưu lại, khi 6 đến 7 tuổi, trẻ đã bắt đầu học về sách Sơ học vấn tân, Tam tự kinh (kinh ba chữ), Tứ tự kinh (kinh 4 chữ), Ngũ ngôn (văn vần 5 chữ). Học trò tập làm văn, làm câu đối 2 chữ, 4 chữ, biết phân biệt vần trắc và bằng…

Nội dung học tập

Khoảng 10 tuổi, học trò làm quen những sách kinh điển của Nho giáo, như Tứ thư, Ngũ kinh, rồi Bắc sử (sử Trung Quốc), Nam sử (sử nước ta).

Ngoài ra, trẻ còn phải đọc sách Bách gia chư tử của các triết gia Trung Quốc thời cổ đại, Đường thi, Tống thi, những áng văn tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam và Trung Quốc.

1

Một buổi học ngày xưa. Ảnh: Công Lý.

Tất cả những nội dung đó, học trò phải thuộc lòng, quên một chữ thì tìm thầy để hỏi. Tất nhiên, để thi cử đậu đạt, những kiến thức trên vẫn chưa đủ. Nó còn phụ thuộc nhiều vào việc vẫn dụng sáng tạo, linh hoạt vào nội dung của từng bài thi cụ thể.

Không chỉ học thuộc làu văn thơ, kinh sách, viết văn, làm thơ, vế đối, học trò còn phải biết soạn thảo các loại văn bản của triều đình.

Thầy giáo trường làng được mệnh danh là thầy đồ, thường là những người học giỏi nhưng thi cử không đậu đạt cao, quan lại nghỉ hưu, hoặc thi đỗ mà không muốn làm quan…

Nhà nước không đài thọ trường dạy trẻ con mà chỉ mở trường huyện, phủ và tỉnh. Quan giáo dục ở huyện gọi là huấn đạo, ở phủ gọi là giáo thụ, còn danh hiệu đốc học gọi là quan của hàng tỉnh.

Sự khốc liệt của các kỳ thi

Trong buổi đầu, thể lệ thi cử chưa ổn định. Sau đó, theo sự phát triển của giáo dục và khoa cử, thể lệ thi cử ngày càng đi vào nền nếp, khuôn khổ. Tuy nhiên, việc quy định bao nhiêu năm tổ chức một kỳ thi không thống nhất, phụ thuộc vào từng triều đại cụ thể.

Năm 1075, nhà Lý tổ chức kỳ thi đầu tiên. Sau đó, khoảng cách giữa những khoa thi thường là 12 năm, rồi đổi thành 7 năm. Đến năm 1435, vua Lê Thái Tông sửa lại là 6 năm một kỳ. Nhưng đến năm 1466, Lê Thái Tông đổi lại là 3 năm một kỳ. Lệ thi này sau đó kéo dài tới cuối thời Nguyễn.

Quy chế khoa cử thời phong kiến bao gồm 3 kỳ thi (thi Hương, thi Hội, thi Đình). Trong đó, quan trọng nhất là 2 kỳ thi Hương và thi Hội.

2

Trường thi Nam Định năm 1912. Ảnh: Tuổi Trẻ.

Thi Hương được tổ chức quy mô một tỉnh hoặc liên tỉnh để chọn người vào thi Hội, thi Đình. Thể lệ thi Hương được ổn định từ thời Lê Thánh Tông, bắt đầu mở trường thi ở các địa phương.

Theo sách Khâm Định Đại Nam Hội điển sự lệ của nhà Nguyễn, kỳ thi Hương có ba vòng (tam trường) hoặc bốn vòng (tứ trường).

Vòng đầu thi kinh nghĩa, gồm các sách tứ thư, ngũ kinh của Nho giáo. Vòng hai thi chiếu biểu (tức soạn thảo các văn bản hành chính như chiếu, biểu, sớ...). Vòng ba thi sáng tác thơ phú theo chủ đề. Vòng bốn thi văn sách để viết các bài tự luận.

Vòng thi kinh nghĩa tương đối dễ, chỉ cần thuộc lòng tứ thư, ngũ kinh và trình bày cho đúng ý của người xưa. Vòng thi chiếu biểu phải thuộc hàng trăm bài loại này rồi chắt lọc tinh hoa để viết thành bài.

Dễ làm nhưng khó đỗ nhất là kỳ thi thơ phú. Dễ vì suốt cả ngày chỉ cần sáng tác một bài thơ tối đa 16 câu và một bài phú tám câu, nhưng cái khó là phải hay (mỗi người một cảm nhận, đánh giá nên rất khó).

Vòng bốn thi văn sách thì tự do trình bày theo kiến giải riêng của mình, tương tự như thi tự luận ngày nay. Muốn qua được vòng thi này, sĩ tử không những phải thông làu kinh sử mà còn phải biết vận dụng sở học của mình để trình bày những kiến giải mới lạ.

Đề thi thường hỏi đủ mọi lĩnh vực như thiên văn, địa lý, bói toán, y học..., đặc biệt là những câu hỏi về thời sự, đòi hỏi sĩ tử phải có những kiến giải độc đáo và đưa ra giải pháp khả thi. Thi tứ trường nhưng phải học thiên kinh vạn quyển là thế!

Những người đỗ trong các kỳ thi Hương chia ra làm 2 loại. Loại một (từ thời Lê về trước) có các danh hiệu Cống cử, Cống sinh, Cống sĩ, Hương tiến, Hương cống. Những ông cử này sẽ được dự kỳ thi Hội. Loại Hai không được thi Hội gọi là Sinh đồ. Người đỗ đầu thi Hương được mệnh danh Giải nguyên.

Thi Hội và thi Đình được mệnh danh là kỳ thi Đại Tỷ (thi lớn, thường được gọi là Đại khoa, gồm hai giai đoạn).

Thi Hội là kỳ thi quốc gia dành cho những người đã qua thi Hương, có bằng cử nhân và các Giám sinh đã mãn khóa Quốc Tử Giám. Những người đỗ đạt trong các kỳ đại khoa như thế đều có danh hiệu, tùy thuộc các thời kỳ khác nhau trong lịch sử.

Theo quy định từ năm 1434, thi Hội cũng có 4 kỳ. Kỳ một thi kinh nghĩa, thư nghĩa, kỳ hai thi chiếu, chế, biểu, kỳ ba thi thơ phú và kỳ bốn thi văn sách.

Thi Đình còn gọi là Điện thí, được tổ chức ngay tại sân điện, do đích thân vua ra đề và chấm thi. Quyển thi và quyển nháp đều do bộ Lễ cấp, có rọc phách. Vua chấm thi vẫn không biết bài đó của ai. Thi Đình thực chất là cuộc phúc tra cuối cùng nhằm thẩm định và xếp hạng các tân tiến sĩ.

Đây cũng là kỳ thi cuối cùng để xếp loại tiến sĩ đã đỗ ở kỳ thi Hội trước đó. Sau khi vua chấm bài, học vị của các sĩ tử được quyết định và bảng vàng ghi danh là vinh hiển tột cùng.

Các tiến sĩ có tên niêm yết trên bảng vàng sẽ được ban yến tiệc trong cung, được bệ kiến hoàng thượng, thăm hoa ở vườn ngự uyển, cưỡi ngựa dạo khắp kinh thành, rồi vinh quy bái tổ. Phần thưởng cao quý nhất cho tiến sĩ là được khắc tên vào bia đá đặt ở Văn Miếu để lưu danh mãi mãi.

Dưới thời Nguyễn, sĩ tử mang tài liệu vào phòng thi sẽ bị gông cổ, phạt đánh 100 roi, bài thi quy định rất ngặt nghèo về cách diễn đạt, trình bày…

Mặc dù không quy định tuổi tác, triều đình rất xem trọng đạo đức của thí sinh. Chỉ những người đáp ứng đủ điều kiện về đạo đức mới được dự thi. Khi đã vào trường thi, mọi người đều bình đẳng như nhau.

Thời nhà Nguyễn quy định thi Hương đỗ tam trường (ba vòng đầu), đạt học vị Tú tài; đỗ tứ trường đạt học vị Hương cống (về sau gọi là cử nhân); đỗ thủ khoa đạt Giải nguyên.

Thi Hội đỗ bảng chính gọi là trúng cách được tiếp tục dự thi Đình; đỗ bảng thứ là thứ trúng cách, được học vị Phó bảng; đỗ thủ khoa đạt Hội nguyên.

Đỗ thi đình đạt học vị chung là Tiến sĩ; đỗ thủ khoa đạt Đình nguyên. Trong đó, đỗ từ 8 đến 10 điểm được xếp bậc Đệ nhất giáp; 10 điểm đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (trạng nguyên), 9 điểm đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhị danh, thường gọi là bảng nhãn, 8 điểm đạt Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh, thường gọi là thám hoa.

 

                                                                                                                   BBT website st

Nguyễn Hiền sinh ngày 12 tháng 7 năm Ất Mùi (1235), quê ở làng Vương Miện, huyện Thượng Hiền (sau đổi là Thượng Nguyên, phủ Thiên Trường, lộ Sơn Nam), nay là thôn Dương A, xã Nam Thắng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.

Liên hệ